Mới bắt đầu tìm hiểu, ta dường như thấy dễ mọi thứ. Càng học chuyên sâu về Phong Thủy, ta nhận ra kiến thức rất rộng và cho dù bạn học 3-4 năm vẫn còn có những kiến thức mới cho ta học.
Quy tắt thì vũ trụ vận hành theo ngũ hành: Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ. Từ đó sản sinh ra ra: Ngũ hành tương sinh, tương khắc, lưỡng sinh (Lưỡng thổ, lưỡng kim, lưỡng thủy, lưỡng mộc, lưỡng hỏa)
Lưỡng Kim – Lưỡng Thổ – Lưỡng Mộc – Lưỡng Hỏa – Lưỡng Thủy
Nam mệnh Kim
gặp nữ mệnh Kim được Vượng (kiết, tốt)
gặp nữ mệnh Thổ được Sinh nhập (kiết, tốt)
gặp nữ mệnh Thủy được Sinh xuất (thứ kiết, khá tốt)
gặp nữ mệnh Mộc được Khắc xuất (thứ kiết, khá tốt)
gặp nữ mệnh Hỏa được Khắc nhập (hung, xấu)
Nam mệnh Mộc
gặp nữ mệnh Mộc được Vượng (kiết, tốt)
gặp nữ mệnh Thủy được Sinh nhập (kiết, tốt)
gặp nữ mệnh Hỏa được Sinh xuất (thứ kiết, khá tốt)
gặp nữ mệnh Thổ được Khắc xuất (thứ kiết, khá tốt)
gặp nữ mệnh Kim được Khắc nhập (hung, xấu)
Nam mệnh Thủy
gặp nữ mệnh Thủy được Vượng (kiết, tốt)
gặp nữ mệnh Kim được Sinh nhập (kiết, tốt)
gặp nữ mệnh Mộc được Sinh xuất (thứ kiết, khá tốt)
gặp nữ mệnh Hỏa được Khắc xuất (thứ kiết, khá tốt)
gặp nữ mệnh Thổ được Khắc nhập (hung, xấu)
Nam mệnh Hỏa
gặp nữ mệnh Hỏa được Vượng (kiết, tốt)
gặp nữ mệnh Mộc được Sinh nhập (kiết, tốt)
gặp nữ mệnh Thổ được Sinh xuất (thứ kiết, khá tốt)
gặp nữ mệnh Kim được Khắc xuất (thứ kiết, khá tốt)
gặp nữ mệnh Thủy được Khắc nhập (hung, xấu)
Nam mệnh Thổ
gặp nữ mệnh Thổ được Vượng (kiết, tốt)
gặp nữ mệnh Hỏa được Sinh nhập (kiết, tốt)
gặp nữ mệnh Kim được Sinh xuất (thứ kiết, khá tốt)
gặp nữ mệnh Thủy được Khắc xuất (thứ kiết, khá tốt)
gặp nữ mệnh Mộc được Khắc nhập (hung, xấu)
Ngũ hành Tương Sinh:
Kim với Thủy gặp nhau: Kim loại vào lò chảy nước đen, Kim sinh Thủy.
Thủy với Mộc: Nhờ nước cây xanh mọc lớn lên.
Mộc với Hỏa: Cây cỏ làm mồi nhen lửa đỏ.
Hỏa với Thổ: Tro tàn tích lại đất vàng thêm.
Thổ với Kim gặp nhau: Lòng đất tạo nên kim loại trắng.
Ngũ hành Tỳ Hòa:
Lưỡng Kim thành khí (Dương Kim với Âm Kim): hợp thành vật dụng.
Thí dụ: Giáp Ngọ-Dương Kim-Sa Trung Kim gặp Quý Dậu-Âm Kim- Kiếm Phong Kim
Ất Mùi-Âm Kim-Sa Trung Kim gặp Nhâm Thân-Dương Kim-Kiếm Phong Kim
Lưỡng Thổ thành sơn (Dương Thổ với Âm Thổ): hợp lại thành núi
Thí dụ: Canh Tý-Dương Thổ-Bích Thượng Thổ gặp Kỷ Dậu-Âm Thổ-Thành Đầu Thổ
Tân Sửu-Âm Thổ-Bích Thượng Thổ gặp Mậu Thân-Dương Thổ-Thành Đầu Thổ
Lưỡng Mộc thành lâm (Dương Mộc với Âm Mộc): hợp lại thành rừng cây
Thí dụ: Mậu Tuất-Dương Mộc-Bình Địa Mộc gặp Kỷ Tỵ-Âm Mộc-Đại Lâm Mộc
Kỷ Hợi-Âm Mộc-Bình Địa Mộc gặp Mậu Thìn-Dương Mộc-Đại Lâm Mộc
Lưỡng Hỏa thành viên (viêm) (Dương Hỏa với Âm Hỏa): hợp thành sức nóng
Thí dụ: Bính Dần-Dương Hỏa-Lư Trung Hỏa gặp Đinh Mão-Âm Hỏa-Lư Trung Hỏa
Ất Tỵ-Âm Hỏa-Phúc Đăng Hỏa gặp Giáp Thìn-Dương Hỏa-Phúc Đăng Hỏa
Lưỡng Thủy thành giang (xuyên) (Dương Thủy với Âm Thủy): hợp lại thành sông
Thí dụ: Bính Ngọ-Dương Thủy-Thiên Hà Thủy gặp Quý Hợi-Âm Thủy-Đại Hải Thủy
Đinh Mùi-Âm Thủy-Thiên Hà Thủy gặp Nhâm Tuất-Dương Thủy-Đại Hải Thủy
Ngũ hành Tương Tranh:
Lưỡng Kim kim khuyết (Dương Kim với Dương Kim; Âm Kim với Âm Kim): bể mất một
Lưỡng Mộc tấc chiết (Dương Mộc với Dương Mộc; Âm Mộc với Âm Mộc): gảy mất một
Lưỡng Thủy thủy kiệt (Dương Thủy với Dương Thủy; Âm Thủy với Âm Thủy): khô cạn hết
Lưỡng Hỏa hỏa diệt (Dương Hỏa với Dương Hỏa; Âm Hỏa với Âm Hỏa): tắt tất cả
Lưỡng Thổ thổ liệt (Dương Thổ với Dương Thổ; Âm Thổ với Âm Thổ): nhảo không dùng được.
Ngũ hành Tương Khắc:
Kim với Mộc gặp nhau: cây đứt hay dao mẻ; Thép cứng rèn dao chặt cỏ cây.
Mộc gặp Thổ: cây hút hết dưỡng chất trong đất, rồi cây cũng dần dần tàn úa. Rễ cỏ đâm xuyên lớp đất dầy.
Thổ gặp Thủy: đất chắn nước; nước chảy cũng lỡ đất. Đất đắp đê cao ngăn nước lụt.
Thủy gặp Hỏa: nước dập tắt lửa, lửa làm khô cạn nước. Nước dội nhiều, nhanh dập lửa ngay.
Hỏa gặp Kim: lửa đốt chảy kim loại, kim loại đè tắt lửa. Lửa lò nung chảy đồng, sắt, thép.
Ngũ Hành Nạp Âm là sự kết hợp giữa Thiên Can và Địa Chi phát sinh ra thứ ngũ hành mới. Cứ hai năm có cùng một hành, nhưng khác nhau về yếu tố Âm Dương. Xem Lục thập hoa giáp ngũ hành…
Thí Dụ: Bính Tuất – Dương Thổ – ngũ hành mạng Ốc Thượng Thổ
Bính Thân – Dương Hỏa – ngũ hành mạng Sơn Hạ Hỏa
Đinh Sửu – Âm Thủy – ngũ hành mạng Giang Hà Thủy
Quý Mùi – Âm Mộc – ngũ hành mạng Dương Liễu Mộc
Giáp Ngọ – Dương Kim – ngũ hành mạng Sa Trung Kim.
Cần nên chú ý: Ngũ hành chính là phần quan trọng. Ngũ hành nạp âm chỉ là phần phụ mà thôi.
(trích Can chi thông luận)
– Giáp Tý, Ất Sửu: Hải trung kim. Ngũ hành của Tý đối ứng với thủy vượng, kim tử ở tý, tang mộ ở sửu.
– Bính Dần, Đinh Mão: Lư trung hỏa. Bính, đinh trong ngũ hành thuộc hỏa, lại được dần, mão thuộc mộc trong ngũ hành trợ giúp. Lửa trong lò mới sinh, vạn vật mới bắt đầu sinh trưởng. Trời đất như lò lửa, âm dương như than củi.
– Mậu Thìn, Kỷ Tỵ: Đại lâm mộc. Thìn biểu hiện cho đất đai hoang dã, tỵ đứng ngôi thứ 6 trong địa chi, mộc này có lợi, sinh cành lá xum xuê. Cây to xum xuê sinh ở nơi đất đai hoang dã.
– Canh Ngọ, Tân Mùi: Lộ bàng thổ. Mùi ngũ hành thổ sinh mộc, khiến cho ngọ ngũ hành hỏa được thành hỏa vượng. Thổ ngược lại phải chịu trở ngại. Thổ là nơi sinh mộc, mộc lại sinh hỏa, hỏa lại đốt thổ, cho nên thổ bị hại giống như đất bụi ven đường. Lộ bàng thổ nếu được thủy tưới có thể về với đất mà sinh vạn vật. Nếu được kim giúp thì xây dựng cung điện phú quý một thời.
– Nhâm Thân, Quý Dậu: Kiếm phong kim. Ngũ hành của thân, dậu là kim, đồng thời kim trong quá trình sinh trưởng vị trí lâm quan ở thân, đế vượng ở dậu. Kim sinh ra nếu thịnh vượng thì rất cứng, sự vật cương cứng không thể vượt qua được lưỡi kiếm.
– Giáp Tuất, Ất Hợi: Sơn đầu hỏa. Tuất, hợi ánh lửa chiếu sáng cực cao, lửa trên núi. Giáp, ất thuộc mộc. Nắng chiều tà mặt trời gác núi tỏa sáng lung linh. Sơn đầu hỏa có thể thông với trời, nên mạng này quý và hiển vinh. Nhưng cần núi có mộc, chỉ có hỏa không thì ánh lửa khó chiếu đến cửa trời. Ngoài ra lửa ở núi lại sợ thủy, nếu gặp đại hải thủy (Nhâm Tuất, Quý Hợi) tương khắc thì hung thần tới nơi.
– Bính Tý, Đinh Sửu: Giang hạ thủy. Thủy trong ngũ hành vượng ở tý, suy ở sửu. Thủy trong Bính tý, Đinh sửu gọi là nước ở khe suối, khi mới lăn tăn gợn sóng, tiếp sau là hợp thành dòng chảy xiết va vào đá mà tung toé, cuối cùng hợp với các nhánh thành dòng chảy về hạ lưu. Nước khe núi là nước trong thanh. Theo như trong sách, thủy này được sa trung kim (giáp ngọ, ất mùi), hoặc kiếm phong kim (nhâm thân, quý dậu) thì thích hợp. Thủy, hỏa không dung nạp nhau, thổ lại làm cho nước suối đục, cho nên không được gặp thổ và hỏa. Tốt nhứt là gặp giáp dần, ất mão (đại khê thủy) tương hợp tượng trung cho suối nhỏ hợp thành sông, càng chảy càng dài không phải lo nghĩ.
– Mậu Dần, Kỷ Mão: Thành đầu thổ. Thiên can mậu, kỷ ngũ hành thuộc thổ. Dần, mão ngũ hành thuộc mộc giống như tích thổ thành núi. Kinh đô của hoàng đế cư ngụ dùng đất đắp thành. Mệnh này kỵ nhâm tuất, quý hợi (đại hải thủy), mậu tý, kỷ sửu (tích lịch hỏa).
– Canh Thìn, Tân Tỵ: Bạch lạp kim. Kim hình thành trong đất mà sau lại ở cùng với hỏa. Tuy hình thái của kim đã bước đầu hình thành nhưng chưa cứng rắn, cho nên gọi là kim giá đèn. Khi này khí của kim vừa mới phát triển, giao hòa với tinh hoa của mặt trời mặt trăng mà kết khí của âm dương. Tính chất mới hình thành của kim giá đèn thích thủy như canh thìn, tân tỵ. Gặp ất tỵ trong số mệng gọi là “phong mãnh hổ cách” thi cử, học vấn có đường đi tốt đẹp. Nếu như gặp thủy thì nên gặp ất dậu, quý tỵ. Trong số mệnh cho là mệnh quý, nhưng bởi bạch lạp kim tính yếu cho nên sợ mộc khắc, trừ khi gặp được hỏa yếu thì lại cần có mộc trợ giúp.
– Nhâm Ngọ, Quý Mùi: Dương liễu mộc. Mộc tử ở ngọ, mộ tàng ở mùi. Mộc đã tử vong tàng mộ, chỉ có thể mượn thiên can nhâm, quý trong ngũ hành thủy để cứu sống. Nhưng rốt cuộc sức sống mộc vẫn yếu đuối giống như tằm nhả ngàn mối dây tơ. Cây dương liễu chỉ thích hợp với bính tuất, đinh hợi thuộc thổ, nhưng lại thích thủy chỉ trừ đại hải thủy. Bản tính dương liễu mộc yếu đuối gặp hỏa thì dễ chết yểu, đồng thời nếu gặp canh thìn, tân dậu (thạch lựu mộc) sẽ bị cây thạch lựu thịnh vượng áp chế khiến cho dương liễu mộc một đời bần tiện.
– Giáp Thân, Ất Dậu: Tuyền trung thủy. Kim kiến lộc ở thân, vượng ở dậu. Kim sau khi sinh thịnh vượng đến cực điểm thì dựa vào hỏa để sinh thủy, nhưng thủy khi mới sinh thì ít ỏi lại không vượng cho nên gọi là nước trong suối. Từ nguồn gốc của nó mà nói, có kim thì nguồn nước không bao giờ dừng. Lấy giáp ngọ, ất mùi (sa trung kim), canh tuất, tân hợi (thoa xuyến kim) là tốt, gặp thủy gặp mộc cũng tốt. Nếu như trong tứ trụ năm, tháng, ngày, giờ sanh nếu năm và giờ trụ đều có thủy, ngày tháng hai trụ đều có mộc như vậy gọi là mệnh đại phú đại quý.
– Mậu Tý, Kỷ Sửu: Tích lịch hỏa. Ngũ hành sửu thuộc thổ, ngũ hành tý thuộc thủy. Đây là hỏa trong thủy thuộc tính rồng thần, cho nên ví như lửa sấm sét, như điện chớp biến ảo vô cùng. Bản chất thủy hỏa vốn không bao dung nhau mà nay thủy hỏa hợp nhứt, sách xưa cho là một loại rồng thần, khi rồng thần đến không thể không có gió mưa sấm chớp, do đó tích lịch hỏa với thủy, thổ, mộc gặp nhau hoặc tốt hoặc không có hại. Kỵ gặp hỏa vì hai hỏa gặp nhau tính khô nên xấu.
– Bính Tuất, Đinh Hợi: Ốc thượng thổ. Bính, đinh ngũ hành thuộc hỏa. Tuất, hợi như cánh cửa trời. Hỏa đang chác lại ở trên cao, vậy thì thổ tự nhiên không ở bên dưới, cho nên gọi là đất ten mái nhà. Ở đây giải thích không được đúng lắm vì đất trên mái nhà chỉ là gạch ngói. Tuất, hợi gặp thủy hòa lại thành bùn, lấy hỏa nung mới thành gạch ngói xây nhà. Đất trên mái nhà là gạch ngói cần mộc là giá đỡ, sau mới cần kim để trang điểm. Phòng ốc kim huy hoàng là tượng trưng cho đại cát đại quý. Cho nên gặp kim lưỡi gươm, kim trang sức đều là mệnh phú quý. Nhà cửa sợ gặp hỏa hoạn cho nên ốc thượng thổ cũng sợ hỏa. Nhưng thiên thượng hỏa lại rất tốt vì tượng trưng cho ánh nắng mặt trời.
– Canh Dần, Tân Mão: Tùng bách mộc. Mộc trong ngũ hành trưởng thành ở dần, thịnh vượng ở mão. Mộc thế sinh thịnh vượng không phải loại yếu đuối, cho nên gọi là gỗ cây tùng, tích hyết hứng sương che nắng mặt trời, gió thổi qua vi vu như nhạc cụ, cành lá dao động như lá cờ bay. Cây tùng là loại cây có sức sống mãnh liệt, cho nên trong hỏa chỉ có bính dần, đinh mão là lửa trong lò, trong thủy chỉ có nhâm tuất, quý hợi đại hải thủy mới có thể hại được tùng bách mộc, ngoài ra tất cả đều vô hại. Gỗ cây tùng sợ gặp đại lâm mộc, dương liễu mộc, tuy cùng hành mộc nhưng chất không giống mà sinh lòng đố kỵ. Tùng bách mộc thích gặp kim, gặp nhau là đại quý. Ngoài ra còn có một loại mệnh cách gọi là “thượng tùng đông tú” tức là ba trụ tháng, ngày, giờ thuộc đông tú (nhâm, quý, hợi, tý thuộc đông) mệnh cách này là mệnh phú quý.
– Nhâm Thìn, Quý Tỵ: Trường lưu thủy. Thìn trong ngũ hành là nơi tích trữ nước, tỵ trong ngũ hành là nơi sinh kim. Trong ngũ hành kim sợ thủy, kim trong tỵ có hàm chất thủy bởi vì nơi tích trữ thủy gặp kim sinh thủy cho nên nguồn nước liên tục không ngừng mà gọi là nước sông dài. Nước sông dài ở đông nam lấy yên tĩnh làm quý. Nước sông dài th có cuồn cuộn không dừng, kim có thể sinh thủy cho nên nước sông dài gặp kim là tốt. Sợ ggạp thủy bởi thủy nhiều quá dễ gây lũ lụt, đồng thời thổ, thủy tương khắc thổ gặp bính tuất, đinh hợi, canh tý, tân sửu thì khó tránh được tai họa, cần phải có kim sinh thủy cứu ứng. Ngoài ra, thủy và hỏa cũng tương khắc nhưng cũng không tuyệt đối. Nước sông dài gặp giáp thìn, ất hợi lửa ngọn đèn và lửa trên núi, nhưng thìn là rồng, rồng lại gặp thủy ý là rồng về biển, mệnh cách cực tốt.
– Giáp Ngọ, Ất Mùi: Sa trung kim. Ngọ là nơi đế vượng của hỏa trong ngũ hành. Hỏa vượng thì kim suy. Mùi là nơi có hỏa suy, hỏa suy yếu kim mới có thể từng bước trưởng thành. Hỏa vừa suy, kim mới có hình cho nên lực không thể lớn mạnh mà gọi là kim trong cát. Kim này mới bắt đầu hình thành chưa thể dùng được cho nên cần có hỏa để luyện. Nhưng hỏa quá vượng thì kim bại, đồng thời cần phải có mộc lại khắc chế kim, khiến kim không thể tùy tiện mà thịnh suy. Đồng thời phải lấy hỏa trên núi, hỏa dưới núi, hỏa ngọn đèn tính ôn hòa luyện. Trong số mệnh cho rằng đây là mệnh cục của thiếu niên vinh hoa phú quý. Sa trung kim cần có thủy tĩnh, nếu nước sông dài và nước biển lớn thì ngược lại đem vùi cát đi. Cho nên cần phối hợp với nước khe núi, nước trong suối và nước trên trời mới tốt. Kim trong cát cũng sợ gặp đất ven đường, cát trong đất và đất vó ngựa vì sẽ bị chôn vùi.
– Bính Thân, Đinh Dậu: Sơn hạ hỏa. Thân là cửa mở xuống dưới đất, dậu là nơi về cửa thái dương, mặt trời xuống núi dần dần tối đi, cho nên gọi là lửa dưới núi. Mặt trời đã xuống núi thì tự nhiên gặp thổ, gặp mộc là tốt. Đó là ánh sáng mặt trời vào đêm không thích gặp lửa sấm sét, lửa mặt trời và lửa đèn.
– Mậu Tuất, Kỷ Hợi: Bình địa mộc. Mậu ý nghĩa là đồng bằng, hợi là nơi sinh ra mộc. Cây sinh ở đồng bằng thì không thể là một quần thể lớn rộng mà chỉ là từng đám cây nhỏ, cho nên gọi là cây ở đồng bằng. Cây đồng bằng thích mưa nhưng không thích sương giá băng tuyết, cũng không thích nhiều đất mà cũng không thích rộng rãi, thường bị người chặt phá vì vậy nên sợ kim, nếu gặp ki là bất lợi. Bình địa mộc thích thủy, thổ và mộc. Ngoài ra có một loại mệnh quý gọi là “hàn cốc hồi xuân” tức là người sinh ở mùa đông trong mệnh lại gặp dần, mão. Hai chi này đều thuộc mộc nên gọi là sinh trưởng của cây trong mùa đông là một loại quý mệnh.
– Canh Tý, Tân Sửu: Bích thượng thổ. Sửu là chính vị của thổ trong ngũ hành, nhưng tý là nơi thủy trong ngũ hành thịnh vượng. Thổ gặp thủy tràn lan mà biến thành bùn sình, cho nên chỉ có thể đắp đập mà gọi là đất trên tường. Đất dùng làm nhà, đầu tiên phải dựa vào xà cột cho nên gặp mộc sẽ tốt, gặp hỏa thì xấu, gặp thủy cũng là mệnh hay nhưng trừ gặp nước biển lớn. Còn với kim thì chỉ thích kim bạch kim.
– Giáp Thìn, Ất Tỵ: Phúc đang hỏa. Thìn là trời đã sáng, tỵ là sắp đến buổi trưa. Lửa ngọn đèn chính là lửa chiếu sáng ban đêm, không tách khỏi được với gỗ và dầu. Dầu trong ngũ hành thuộc thủy nên ngọn đèn gặp mộc gặp thủy là tốt. Đêm chủ âm do đó lửa ngọn đèn kỵ mặt trời. Lửa ngọn đèn có hai loại mệnh quý, một là “che đèn thêm dầu” gặp nước dưới giếng, nước dưới khe, nước sông dài. Và một loại “dưới đèn múa kiếm” gặp kiếm phong kim. Ngoài ra lửa ngọn đèn sợ gặp thổ, trong ngũ hành chỉ trừ bính tuất, đinh hợi. Phúc đăng hỏa thích hỏa nhưng trừ lửa sấm sét là lửa rồng thần tất phải có gió thổi làm tắt lửa đèn.
– Nhâm Dần, Quý Mão: Kim Bạch Kim. Dần, mão ngũ hành thuộc mộc là nơi mộc vượng. Mộc vượng thì kim bị suy yếu. Kim trong ngũ hành tuyệt ở dần, thai ở mão. Tóm lại kim ở đây mềm yếu không có lực cho nên gọi là kim loại trang sức. Mọi người dùng kim bạch kim làm đồ trang sức, người xưa dùng để phủ chữ trong các đền chùa và các khí cụ khác, ánh sáng của nó đẹp đẽ tôn quý. Nguồn gốc là do kim gia tạo thành. Kim bạch kim gặp đất trên thành, đất trên tường mới có cơ hội phát triển. Trong sách nói mệnh kim bạch kim gặp mậu dần (đất trên thành) gọi là “Ngọc trên núi”. Quý mão trong kim bạch kim gặp kỷ mão gọi l “thổ ngọc đông thăng” đều là mệnh quý.
– Bính Ngọ, Đinh Mùi: Thiên hà thủy. Bính, đinh thuộc hỏa, ngọ là nơi ngũ hành hỏa vượng những nạp âm gọi thủy. Thủy từ trong hỏa sinh ra cho nên xem như nước trên trời. Nguyên khí lên cao, khí thế sung túc hóa thành mây mù rơi xuống thành mưa, thúc đẩy sự sinh trưởng của vạn vật. Nước trên trời vốn ở trên cao, cho nên kim, mộc, thủy, hỏa, thổ ở dưới đất không thể khắc chế được. Duy chỉ có canh tý, tân mùi là đất trên tường là tương xung với thiên hà thủy.
– Mậu Thân, Kỷ Dậu: Thành đầu thổ hay Đại dịch thổ. Thân là quẻ khôn, khôn trong bát quái ý nghĩa là đất. Dậu là quẻ đoài, đoài trong bát quá là đầm ao. Mậu, kỷ trong ngũ hành thuộc thổ, giống như bụi bay trong không khí, đất dịch chuyển. Nguyên khí dần dần hồi phục, vạn vật sinh mệnh thu lại đều giống như đất dịch chuyển quay về với mặt đất. Đất dịch chuyển thuộc mệnh cách tương đối cao quý, biểu hiện cho khuynh hướng quay về với bản tính. Đất chuyển dịch thích nước tương đối thanh tĩnh như nước giếng, nước dưới khe, nước sông dài. Thích kim thanh tú như kim trang sức, kim loại trắng. Có một số can chi khí vượng thế mạnh đất chuyển dịch gặp phải thì bị vùi chôn như gặp nước biển lớn, lửa trên núi, lửa dưới núi, lửa ngọn đèn. Gặp phải lửa sấm sét đành phải dùng thủy để hóa giải.
– Canh Tuất, Tân Hợi: Thoa xuyến kim. Ngũ hành kim suy tại tuất, bện tại hợi. Kim đã suy yếu lại bệnh, cho nên rất mềm yếu gọi là kim loại trang sức. Kim trang sức là vàng bạc liệu có phú quý không? không nhứt định là như vậy. Vạn vật cái quý nhứt là được bản tính tự nhiên, cho nên kim trang sức là vật để đeo trang sức đã bị nung nấu bị tổn thương. Kim trang sức sợ gặp hỏa, thích gặp nước giếng, nước khe núi, nước trong suối, nước sông dài là tốt. Nhưng sợ gặp nước biển lớn ví như đá rơi đáy biêNể Ngoài ra còn thích cát trong đất bởi vì thổ có thể sinh kim.
– Nhâm Tý, Quý Sửu: Tang thạch mộc. Ngũ hành tý thuộc thủy, ngũ hành sửu thuộc thổ sinh kim. Thủy có thể làm cho mộc sinh trưởng tươi tốt, những kim lập tức có thể chặt nó, giống như cây dâu vừa mới sinh trưởng bị người ta chặt cho nên gọi là gỗ cây dâu. Quá trình sinh trưởng của cây dâu nếu gặp cát trong đất, đất ven đường, đất chuyển dịch nơi sinh nó thì rất tốt. Gặp nước sông dài, nước dưới khe, nước trong suối sẽ giúp nó tươi tốt. Nếu gặp canh dần, tân mão gỗ cây tùng bách đây gọi là mạnh yếu giúp nhau, gặp gỗ cây liễu người ta gọi là “dâu liễu thành rừng” là cảnh an cư lập nghiệp. Gặp gỗ rừng lớn giống như nhánh sông gặp dòng sông là rất tốt. Chỉ có gặp gỗ đồng bằng, gỗ cây lựu sẽ bị tàn phá chèn ép là xấu.
– Giáp Dần, Ất Mão: Đại khê thủy. Dần, mão thuộc phương đông, dần là nơi gió đông thịnh vượng. Mão ở chính đông, nếu nước hướng chảy chính đông thì tha hồ thỏa thích trên đường tụ hội thành dòng chảy ra sông gọi là nước suối lớn. Nước suối lớn cần chảy về biển mà điều quan trọng là chảy liên tục không dứt. Do đó nước suối lớn nên gặp kim sinh thủy giúp. Nếu gặp các loại thổ khác sinh mộc đều không hay. Chỉ có nhâm tý, quý sửu là núi, lại gặp nước, trong sách gọi là “nước chảy quanh núi” mới là mệnh quý.
– Bính Thìn, Đinh Tỵ: Sa trung thổ. Thổ trong ngũ hành mộ ở thìn, tuyệt ở tỵ. Bính, đinh ngũ hành thuộc hỏa trưởng thành tại thìn, hiển thân tại tỵ. Thổ này ở thế mộ tuyệt nhưng hỏa lại vượng khiến cho nó có thể làm lại mới tất cả. Giống như những đốm trong khi đốt bay lên rồi rơi xuống thành thổ, cho nên gọi là cát trong đất. Cát trong đất có kim là quý, lại cần nước trong lọc kim ra, cho nên gặp nước, gặp kim là quý. Sa trung thổ thích gặp lửa trên trời có ánh thái dương bãi cát chạy dài cảnh mới đẹp. Lại thích gỗ cây dâu, cây dương liễi vì hai loại gỗ này cát mới có thể trồng nó, ngoài ra gặp các loại mộc khác đều không tốt.
– Mậu Ngọ, Kỷ Mùi: Thiên thượng hỏa. Ngọ là giai đoạn cực thịnh vượng của hỏa trong ngũ hành. Mùi, kỷ là nơi mộc sinh trưởng khiến cho thế hỏa càng vượng. Hỏa mạnh bốc cao gọi là lửa trên trời, là mặt trời nên thích gặp mộc, thủy, kim để điều hòa phối hợp biến hóa khiến cho thủy tươi, mộc tốt. Mộc giúp hỏa bốc cháy. Thiên thượng hỏa thích lửa ngọn đèn, ngoài ra với các hỏa khác đều tương khắc. Hỏa này gặp thổ, nếu có kim, mộc thì hình thành một mệnh cực quý. Lửa trên trời nếu đơn độc với thủy thì dễ hình thành thủy hỏa tương khắc.
– Canh Thân, Tân Dậu: Thạch lựu mộc. Thân biểu hiện cho tháng 7, dậu biểu hiện cho tháng 8. Khi này cây cối đã bắt đầu tàn lụi, chỉ có cây thạch lựu là kết trái. Thứ cây này vào mùa thu kết trái cho nên tính mộc cứng rắn, với thủy, mộc, thổ, kim qua lại có thể hòa hợp thành tốt. Duy chỉ có nước biển lớn thế thủy ào ạt gặp nó sẽ bần cùng, bịnh tật. Có thể gặp lửa trên trời, lửa sấm sét, lửa trong lò, những hỏa ấy dự báo điềm xấu. Gỗ thạch lựu thường bao hàm mệnh quý như người sinh tháng 5, lại có mang một hỏa gọi là “thạch lựu phun lửa”. Gỗ gặp cây dương liễu gọi “hoa hồng liễu xanh”.
– Nhâm Tuất, Quý Hợi: Đại hải thủy. Thủy trong ngũ hành tại tuất là giai đoạn đã thành thục, tại hợi cũng là giai đoạn này, do đó thủy ở đây thêm lực hùng hậu, đồng thời ngũ hành của hợi thuộc thủy biểu hiện của sông hồ đổ ra biển cho nên gọi là nước biển lớn. Biển mênh mông thế vô cùng tận không có gì có thể so sánh được. Đó là nơi quy tụ của các con sông cho nên các loại nước trên trời, nước sông dài, nước suối lớn gặp nước biển lớn đều tốt. Nhâm thìn trong nước sông dài phối hợp với nước biển lớn gọi là “rồng quay về biển” mệnh này phú quý một đời không ai so nổi. Đại hải thủy thích lửa trên trời vì mặt trời mọc ở biển đông. Thích kim đáy biển, và thích mộc gỗ cây dâu, cây dương liễu. Đại hải thủy thích đất dịch chuyển và đất bên đường. Ngoài ra tất cả đều không chịu nổi nước biển lớn, nước biển lớn gặp lửa sấm sét tạo thành thế nước sung hãn, phong ba bão táp. Mệnh người như vậy một đời lao khổ. Cho nên cần phải có thế núi hùng hậu để trấn giữ biển.
Lưỡng Kim
Muốn lưỡng Kim thành khí, mệnh phải thuộc Hải Trung Kim, Sa Trung Kim, Bạch Lạp Kim tức kim loại chưa tinh chế, phải nhờ Hỏa mới thành khí, nhưng phải là Lư Trung Hỏa hay Phúc Đăng Hỏa mới thích hợp. Những Hỏa khác khắc kỵ với Kim (Hỏa khắc Kim) như Thoa Xuyến Kim, Kiếm Phong Kim, Kim Bạch Kim gặp Thiên Thượng Hỏa, Tích Lịch Hỏa trở thành Kim khuyết, ví như kim loại mà gặp lửa sẽ bị nóng chảy.
Lưỡng Mộc
Khi muốn lưỡng Mộc thành lâm, tức phải có nhiều cây chụm lại mới thành rừng, gồm những cây như Tùng Bá Mộc, Dương Liễu Mộc hay Bình Địa Mộc, nhưng phải nhờ Đại Trạch Thổ, Sa Trung Thổ hay Lộ Bàng Thổ thuộc những vùng đất lớn, nên Tùng Bá và Dương Liễu Mộc không khắc Thổ, trái lại phải nhờ Thổ. Còn Đại Lâm Mộc khắc với ba hành Thổ trên (khắc xuất), và gặp Kim sẽ thành Mộc chiết (khắc nhập).
Lưỡng Thủy
Lưỡng Thủy thành xuyên phải là Tuyền Trung Thủy phối hợp với Đại Khê Thủy hay Giang Hà Thủy phối hợp với Trường Lưu Thủy, hoặc cả hai phối hợp với Đại Hải Thủy mới thành sông to, biển lớn. Những hành thủy này tạo dựng thành công bằng chính bản thân, không nhờ ai như Kim, Mộc. Chỉ có Thiên Hà Thủy không phối hợp được với bất cứ mệnh Thủy nào khác.
Thổ chỉ khắc được Thủy làm cho Thủy kiệt, với cách hành như Tuyền Trung Thủy, Đại Khê Thủy, Trường Lưu Thủy, đất bồi làm mất dòng chảy của nước, nhưng không chế ngự được với Giang Hà Thủy, Đại Hải Thủy những sông to biển lớn hay Thiên Hà Thủy (nước trên trời).
Lưỡng Hỏa
Để được lưỡng Hỏa thành viên phải có Lư Trung Hỏa phối hợp với Phúc Đăng Hỏa hay Sơn Đầu Hỏa với Sơn Hạ Hỏa, hoặc Tích Lịch Hỏa với Thiên Thượng Hỏa. Về bốn mệnh Hỏa đầu, cần có thêm Mộc để đạt đến mục đích lửa to cháy lớn, được sinh nhập (Mộc sinh Hỏa), còn hai hành Hỏa từ trên trời không cần đến Mộc vẫn phát huy được tính cách lưỡng Hỏa thành viên của mình.
Còn Hỏa diệt khi Lư Trung, Phù Đăng, Sơn Đầu, Sơn Hạ Hỏa gặp phải nước (Thủy khắc Hỏa) là khắc nhập. Riêng Tích Lịch Hỏa, Thiên Thượng Hỏa chỉ khắc Thiên Hà Thủy.
Lưỡng Thổ
Muốn lưỡng Thổ thành sơn, chỉ có Lộ Bàng Thổ, Sa Trung Thổ hay Đại Trạch Thổ phối hợp nhau không cần sự tiếp tay của những hành khác. Ba mệnh Thổ còn lại không thể thành núi vì những Thổ này rời rạch và nhỏ bé, muốn thành núi phải nhờ đến Hỏa tiếp tay diệt Mộc, tức là lửa đốt cây để thành đất. Ba mệnh Lộ Bàng, Sa Trung, Đại Trạch Thổ nếu có Hỏa sẽ thêm tốt, công danh sự nghiệp sẽ phất càng cao thêm.
Tính đến Thổ liệt, cả lục Thổ đều kỵ Mộc tức khắc nhập (Mộc khắc Thổ), cây có thể mọc khắp nơi trên mọi loại đất, từ đất nóc nhà, đất bờ ruộng, bờ tường, đầu thành hay đất đầm lầy, bãi cát, đường lộ. Ngoài Mộc nhiều mệnh Thổ còn đại kỵ khi gặp phải các hành Thủy sau đây, dù là khắc xuất nhưng từ thứ hung sang đại hung:
– Lộ Bàng Thổ và Đại Trạch Thổ gặp Giang Hà Thủy và Trường Lưu Thủy sẽ làm cho đất lỡ lún.
– Sa Trung Thổ gặp Đại Khê Thủy hay Tuyền Trung Thủy làm cho sói mòn.
– Thành Đầu Thổ, Bích Thượng Thổ và Ốc Thượng Thổ rất sợ gặp Thiên Hà Thủy làm cho đất nhão nhoẹt đến hủy diệt.
Sinh:
Mộc sinh Hỏa
Hỏa sinh Thổ
Thổ sinh Kim
Kim sinh Thủy
Thủy sinh Mộc
Khắc:
Mộc khắc Thổ
Thổ khắc Thủy
Thủy khắc Hỏa
Hỏa khắc Kim
Kim khắc Mộc
Thiên Can, gồm mười thiên can theo thứ tự:
1. Giáp; 2. Ất; 3. Bính; 4. Đinh; 5. Mậu; 6. Kỷ; 7. Canh; 8. Tân; 9. Nhâm; 10. Quí.
Số lẻ là Dương Can: Giáp; Bính; Mậu; Canh; Nhâm; Quí
Số chẵn là Âm Can: Ất; Đinh; Kỷ; Tân; Quí
Những cặp đối xung: Giáp – Kỷ; Ất – Canh; Bính – Tân; Đinh – Nhâm; Mậu – Quí
Địa Chi, gồm 12 địa chi theo thứ tự:
1. Tý; 2. Sửu; 3. Dần; 4. Mão; 5. Thìn; 6. Tỵ; 7. Ngọ; 8. Mùi; 9. Thân; 10. Dậu; 11. Tuất; 12. Hợi.
Số lẻ là Dương Chi, chỉ kết hợp với Dương Can:
Giáp Tý; Bính Dần; Mậu Thìn; Canh Ngọ; Nhâm Thân; …
Số lẻ là Âm Chi, chỉ kết hợp với Âm Can:
Ất Mão; Tân Tỵ; Quí Sửu; Đinh Mùi; …
Những cặp đối xung (hơn kém nhau 6): Tý – Ngọ; Sửu – Mùi; Dần – Thân; Mão – Dậu; Thìn – Tuất; Tỵ. – Hợi.
Tương hợp gồm Nhị hợp: Tý – Sửu; Mão – Tuất; Tỵ – Thân; Dần – Hợi; Thìn – Dậu; Ngọ – Mùi.
Tam hợp: Thân – Tý – Thìn; Dần – Ngọ – Tuất; Hợi – Mão – Mùi; Tỵ – Dậu – Sửu.
Vậy mỗi Chi chỉ có một xung (Thìn xung Tuất), nhưng ba hợp (Thìn hợp với Dậu, Thân, Tý).
Thiên khắc: Nhâm, Quí hành Thủy khắc Bính; Đinh hành Hỏa
Địa xung: Tý xung Ngọ; Mão xung Dậu; Thìn xung Tuất; …
Phần phụ: xem mạng vợ chồng, người làm ăn hùng hạp, người hổ trợ trong công danh, v.v. xem kỷ Thiên Can, Địa xung. Nếu bị cả Thiên khắc, Địa xung thì hai hành này gặp nhau sẽ xấu nhứt, mưu sự khó thành. Còn như chỉ bị Thiên khắc hay chỉ có Địa xung thì cũng xấu, nhưng không đáng quá lo ngại
Biện pháp hóa giải xung khắc
Để thành công qua các cách trên, như lưỡng Kim thành khí phải nhờ có Hỏa, lưỡng Mộc thành lâm phải có Thổ, lưỡng Hỏa thành viên phải có Mộc và lưỡng Thổ thành sơn phải có Hỏa, còn lưỡng Thủy thành xuyên không cần mệnh nào gián tiếp hỗ trợ.
Những hành gián tiếp hỗ trợ được hiểu theo nghĩa đen như sau: trong công việc kinh doanh hai người cùng hợp tác, nếu cùng một mệnh cần thêm người thứ ba phục vụ, hành Kim tìm người mệnh Hỏa, hành Mộc tìm người mệnh Thổ, hành Hỏa tìm người mệnh Mộc, hành Thổ tìm người mệnh Hỏa. Trong đó nên tránh những mệnh tương khắc.
Còn trong hôn sự, cổ nhân thường có câu: “nhất gái lớn hơn hai, nhì trai hơn một”, qua những điển hình sau:
Thí dụ: trai Kỷ Sửu lấy gái Canh Dần (trai hơn một), hay gái Canh Dần lấy trai Nhâm Thìn (gái lớn hơn hai) sẽ hợp theo câu trên.
Tính về sinh khắc: trai Kỷ Sửu mang hành Hỏa (Tích Lịch Hỏa) lấy gái Canh Dần (Tùng Bá Mộc) là Mộc sinh Hỏa, ở cách này người con gái sẽ trở thành nô lệ hơn là vợ chồng hạnh phúc, do gặp cảnh chồng chúa vợ tôi. Hậu quả về sau gia đạo thường bất hòa, trước tốt sau hung.
Còn gái Canh Dần lấy trai Nhâm Thìn (Trường Lưu Thủy) là Thủy sinh Mộc, tức người chồng sẽ lo cho vợ con, gia đình hòa thuận, cùng nhau “tát bể đông cũng cạn”, sẽ mang đến giàu sang phú quí. Bởi lẽ thường người vợ lớn tuổi hơn chồng trước sẽ biết tự lo cho bản thân, sau lo cho chồng con, không thụ động theo cảnh thường thấy ở những đôi vợ chồng. Còn người chồng tuy nhỏ tuổi hơn nhưng lại là gia trưởng cũng biết lo lắng cho gia đình. Cả hai cùng bươn trải xây dựng cơ ngơi, không ai thụ động, nên của cải càng thêm lớn.
Còn vợ chồng đồng mệnh (không theo tuổi tác chỉ tính theo ngũ hành nạp âm), nên xem diễn giải sinh khắc đã nói, và sinh con theo tính tương hợp là tốt, còn sinh theo tính tương khắc là xấu, con cái sẽ theo đuổi vận mệnh vợ chồng đến cuối đời. Trong công việc còn có thể thay đổi người thứ ba.
Trong hôn nhân phần xem tuổi vợ chồng qua Ngũ hành sinh khắc, nhiều người thường lo lắng như trai mệnh Thổ lấy gái mệnh Mộc (Mộc khắc Thổ) sẽ yểu thọ, vì cây sẽ hút hết chất màu mở của đất v.v.
Tuy nhiên trong năm hành đều có tính chất riêng là phần nạp âm, như Thổ có Lộ Bàng Thổ, Sa Trung Thổ, Đại Trạch Thổ v.v. Nên khi gặp khắc mà tốt, còn thấy sinh lại xấu. Sau đây là tính chất sinh khắc của nạp âm:
Sinh Khắc Ngũ Hành Nạp Âm
Hành Kim:
Sa Trung Kim, Kiếm phong Kim, lưỡng ban cầm nhược
của chấn địa tiên tương xâm.
Mộc mệnh nhược phòng tức khắc hiềm
Ngoại hữu tứ Kim giải kỵ Hỏa
Kiếm, Sa vô Hỏa bất thành hình.
Giải thích: Nếu mệnh là Kiếm Phong Kim và Sa Trung Kim mà hợp cùng người mệnh Hỏa trong hôn nhân lại tốt đẹp vô cùng.
Kiếm Phong Kim (vàng trong kiếm) và Sa Trung Kim (vàng trong cát), nếu không có lửa (Hỏa) thì không thành vật dụng, không tôi luyện thành lợi khí được. Hải Trung Kim và Sa Trung Kim rất sợ Tích Lịch Hỏa vì lửa này có thể xuống tận đáy biển, tận tầng đất sâu. Nếu gặp Can Chi thiên khắc, địa chi Xung thì phải tránh là tốt hơn. Ví dụ: Nhâm Thân, Quý Dậu (Kiếm Phong Kim) gặp Bính Dần, Đinh Mão (Lư Trung Hỏa). Cả hai lại khắc với Mộc (Kim khắc Mộc) vì hành kỵ, cho dù Mộc hao Kim lợi (Kim được khắc xuất, mất phần khắc), nhưng vẫn chịu thế tiền cát hậu hung (trước tốt sau xấu), do Kim chưa tinh chế nên không hại được Mộc vượng, không chém được cây lại thêm tổn hại.
Bốn hành Kim còn lại là Hải Trung Kim (vàng trong biển), Bạch Lạp Kim (vàng trong sáp), Thoa Xuyến Kim (vàng trang sức) và Kim Bạch Kim (vàng pha vàng trắng) đều kỵ hành Hỏa.
Hành Hỏa
Phúc Đăng, Lư Trung kỷ Sơn Đầu
Tam Hỏa nguyên lai phách Thủy lưu
Thiên Thượng, Tích, Sơn Hạ Hỏa
Thủy trung nhất danh y lộc cận vương hầu
Giải thích: Ba loại Phúc Đăng Hỏa (lửa đèn dầu), Lư Trung Hỏa (lửa bếp lò) và Sơn Đầu Hỏa (lửa trên núi) gặp hành Thủy sẽ khắc kỵ. Khi gặp nước, ba thứ lửa trên sẽ bị dập tắt, đúng nghĩa Thủy khắc Hỏa, thuộc diện khắc nhập, mất phần phúc.
Còn Thiên Thượng Hỏa (lửa trên trời) và Tích Lịch Hỏa (lửa sấm sét), Sơn Hạ Hỏa (lửa dưới núi) lại cần phối hợp với hành Thủy, bởi có nước thì càng phát huy được tính chất, khí âm (Thủy) gặp khí dương (Hỏa) sẽ gây ra sấm sét, vì vậy ba loại Hỏa này gặp Thủy thì càng phát, trời mưa càng to, sét có thể chui xuống đáy biển để khắc Thủy. Nếu có Thủy, các mạng này sẽ được một đời y lộc đầy đủ, gần bậc vương hầu, quyền quí.
Hành Mộc
Tòng Bá, Dương Liễu, Tang Đố Mộc
Thạch Lựu, Đại Lâm kỵ Kim đao.
Ngũ ban biệt Mộc kỵ Kim loại
Nhược ngộ đương nhiên bất đắc sinh
Bình Địa Mộc trung chỉ nhất sinh
Bất phùng Kim giả bất năng thành.
Giải thích: Trong lục Mộc chỉ có Bình Địa Mộc (cây trên đất bằng) không sợ Kim (Kim khắc Mộc), mà còn cần hòa hợp mới thành vật hữu dụng (cưa, búa đẻo gọt cây thành vật để dùng như tủ, bàn, ghế), không gặp Kim thì khó cầu công danh, phú quí.
Năm loại Mộc còn lại như Tùng Bá Mộc (gỗ cây tùng), Dương Liễu Mộc (gỗ cây Dương Liễu), Tang Đố Mộc (cây Dâu Tằm), Thạch Lựu Mộc (cây Thạch Lựu) và Đại Lâm Mộc (cây trong rừng) đều sợ bị Kim khắc, nhưng Kim suy khó thể khắc Mộc vượng, trừ khi Mộc yếu mà gặp Kim vượng thì bất lợi. Các loại Mộc kỵ nhứt là Sa Trung Kim và Kiếm Phong Kim khắc rất mạnh, nếu phối hợp sẽ tử biệt hay nghèo khổ suốt đời. Những loại cây trong rừng (Đại Lâm, Tùng Bá), những cây sống đơn lẻ (Thạch Lựu), cây còi (Dương Liễu) rất hay bị đốn chặt và sợ nhứt là Kiếm Phong Kim vì đây là vũ khí kim loại.
Hành Thủy
Thủy kiến Thiên Hà, Đại Hải lưu
Nhị ban bất phạ Thổ vi cừu
Ngoại giả đô lai toàn kỵ Thổ
Phùng chi y lộc tất nan cầu
Giải thích: Đại Hải Thủy (nước biển), Thiên Hà Thủy (nước trên trời) không sợ gặp Thổ dù Thổ khắc Thủy (Thủy hao, Thổ lợi) vì đất không ở biển lớn hay trên trời, Thủy vượng bao vây Thổ, có thể tưới ruộng tưới đất khắp nơi, nên Thổ không khắc được Thủy mà còn khắc ngược lại Thổ, cả hai phối hợp cùng Thổ càng mau thành công, nếu thành vợ chồng sẽ dễ hiển đạt đường công danh, đại phú đại quý. Nhưng nếu gặp thiên can khắc, địa chi xung thì lại khó cầu công danh, phú quí, nên tránh là tốt hơn.
Còn các Thủy khác: Trường Lưu Thủy (sông dài), Giang Hà Thủy (sông cái), Tuyền Trung Thủy (nước suối) và Đại Khê Thủy (nước khe) đều kỵ Thổ, nước chỉ làm lợi cho đất, số sẽ vất vả, nghèo khổ, một đời khó cầu no ấm, vì nước mất mát cho đất thêm màu mở.
Hành Thổ
Lộ Bàng, Đại Trạch, Sa Trung Thổ
Đắc Mộc như đạt thanh vân lộ
Ngoại hữu tam ban phách Mộc gia
Phùng chi tất mệnh tu nhập mộ
Giải thích: Lộ Bàng Thổ (đất đường lộ), Đại Trạch Thổ (đất đầm lầy) và Sa Trung Thổ (đất bãi cát) không sợ Mộc, vì cây không sống giữa đường cái hay trên bãi cát, đầm lầy. Cả ba hành Thổ này nếu gặp Mộc không khắc dù Mộc khắc Thổ (Thổ hao Mộc lợi), trái lại còn có đường công danh, sống đời cao sang, thi đậu dễ dảnh, tài lộc thăng tiến không ngừng.
Thành Đầu Thổ (đất bờ thành), Bích Thượng Thổ (đất trên tường) và Ốc Thượng Thổ (đất nóc nhà) đều sợ Mộc, nhứt là Tang Đố Mộc, Thạch Lựu Mộc, như thân tự chôn xuống mộ. Ba hành Thổ này tuy không sợ Bình Địa Mộc, Đại Lâm Mộc, Tùng Bá Mộc nhưng không bền vững vì hành kỵ.
Trích từ sách “Hiệp hôn định cuộc” và “Tướng mệnh và Hạnh phúc lứa đôi” của Thiên Việt.
Khi chọn vợ, chọn chồng ngoài các yếu tố như Tam hợp, Lục hợp, Tứ hành xung, Bản mệnh, Ngũ hành nạp âm, còn nên chú ý đến Thập thiên can và Thập nhị địa chi.
Theo phương pháp lấy Thiên Can của chồng ghép với Địa chi của vợ, rồi xem kết quả… hoặc vào trang dưới tìm “Toán số Cao Ly kết hợp Cung, Mệnh, Tuổi” để kiểm tra lại một lần nữa.
☯ Cung Phi – Bảng Cung Phi Bát Trạch và Cung Phi Bát Tự – Công Thức Tính ☯
Chổng Can Giáp lấy vợ:
Tuổi Tý: “Bẽ quế nơi cung thiềm”. Vợ chồng có cưới hỏi, chồng có quyền thế nhưng hậu sự thiếu âm đức nên con cháu về sau gặp tai họa lâm cảnh thiên la địa võng bủa vây.
Tuổi Sửu, tuổi Dần: “Mưa gãy cành hoa, đường mây lạc lối”. Vợ chồng không được tốt, có lấy nhau rồi cũng có thay đổi nên đường con cái không thuận lợi, có con không được nhờ vì bất hiếu hay có sinh không dưỡng. Đường quan lộc không được hanh thông.
Tuổi Mão: “Mùa thu lá rụng”. Cả hai khó sống bền vững, vợ thường hư thai hay sinh khó nuôi dưỡng.
Tuổi Thìn, tuổi Tỵ: “Mây che núi cao”. Có sự giàu sang phú quý nhưng là tiền kiết hậu hung. Hậu vận không tốt đẹp, con cái tha phương lập tổ, cách ly gia đình.
Tuổi Ngọ: “Xe to gãy trục”. Như Thìn, Tỵ trước khá sau khổ. Từ tuổi 40 trở đi gặp nhiều gian nan, cần tích đức để có được cách “Đức năng thắng số”. Con khó nuôi.
Tuổi Mùi: “Đường mây lỡ nhịp”. Nếu cưới vợ xa quê được bền, đường con cái không nhiều, khó nuôi.
Tuổi Thân: “Rồng thiếu nước”. Đường quan lộc đầy gian truân trắc trở, thăng giáng dời đôi, làm hao tài tốn của, gia đạo lại không an.
Tuổi Dậu, tuổi Tuất: “Bẽ quế cung thiềm, rồng vàng hiện đến”. Thi cử đậu cao, vợ đẹp con khôn, đường công danh sự nghiệp đắc tài đắc lợi. Sinh con trai đầu loòg là đúng cách.
Tuổi Hợi: “Đứng dưới đất nhìn trăng”. Trước tốt sau xấu, có vợ đẹp con ngoan, địa vị cao, nhưng hậu vận gặp tai ách giáng làm tiêu tan sự nghiệp.
Chổng Can Ất lấy vợ:
Tuổi Tý: “Rồng cọp đều quỳ, đầu chó trổ tre”. Đường công danh đắc lộ, con cái phát đạt nhưng tài lộc sẽ không được vừa ý.
Tuổi Sửu, tuổi Dần: “Mặt trời mặt trăng giữa trời hoa nở khi gặp tuyết rơi”. Học hành thi cử đều đỗ đạt, có công danh địa vị lớn. Nhưng hậu vận sẽ gian nan mang nhiều cay đắng. Con cái có đứa giàu có đứa bần hàn. Hoa nở mà gặp tuyết rơi thì hoa rụng.
Tuổi Mão: “Cây liễu gặp gió đông, chim phượng hoàng gãy cánh”. Tiền vận hạnh phúc, tài lộc dồi dào nhưng hiếm muộn đường con, còn có con sẽ giảm phần quan lộ. Hậu sự lại đứt gánh.
Tuổi Thìn, tuổi Tỵ: “Góa bụa gặp nhau”. Nếu đã qua một đời chồng vợ mới gặp nhau thì phát đạt rất mau chóng. Còn trai tân gái sắc lấy nhau thì trai nên ở rể chịu nhún nhường bên vợ cũng sẽ đẹp đôi. Có con gái nhiều hơn trai.
Tuổi Ngọ: “Trời đất không mưa, trước tối sau sáng”. Lấy nhau sẽ phát đạt mau chóng, nhưng hậu vận có chuyện buồn khổ trong phòng khuê, đường công danh nhiều biến chuyển không tốt.
Tuổi Mùi: “Cá vượt vũ môn, rồng mây gặp hội”. Vợ chồng hạnh phúc phú quý song toàn. Con cái thành đạt, có rể quý dâu hiền.
Tuổi Thân: “Rồng bay gặp vận”. Vợ chồng thành đạt nhưng bất ngờ gặp hình sát, nếu không về hậu vận của cải cũng không bền.
Tuổi Dậu: “Chim sa vào lồng, ngựa nhốt vào chuồng”. Nếu bạo phát sẽ bạo tàn, nếu không cũng yểu tử. Trước vinh sau nhục, trước sướng sau khổ. Nếu trước khổ sau sẽ được bù đắp.
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: “Trăng chìm dưới biển, rồng bị vây trong mây”. Vợ chồng nên an phận lúc mới cưới về sau sẽ được tiền của, còn mưu sự sẽ chóng chết yểu, con cái, công danh đâm trắc trở.
Chổng Can Bính lấy vợ:
Tuổi Tý: “Hoa rơi đầy đất”. Lúc trẻ bôn ba nhiều sẽ được bù đắp bằng tuổi thọ. Vợ thường sinh khó nguy hại tính mạng. Sinh trai nhiều hợp tuổi vợ chồng, sinh gái khó nuôi.
Tuổi Sửu: “Rồng còn ẩn sâu dưới nước”. Số bay nhảy vất vả nhiều, nhưng sự nghiệp vẫn trắng tay, có con muộn lại khó nuôi. Số có con nuôi mới được nhờ về già.
Tuổi Dần: “Chim oanh chim én đậu mùa xuân”. Có vợ đẹp con ngoan, gia đạo hạnh phúc. Lúc đầu xó xa cách, sau hòa hợp mới nên nhà nên cửa, có con gái nhiều hơn con trai.
Tuổi Mão, Tuổi Thìn: “Cá lọt lưới”. Thân gặp nạn vạ lây đến vợ con. Hai tuổi này rất xấu, có tử biệt sinh ly, con cái không thành tài.
Tuổi Tỵ: “Thuyền chở kim ngân xuôi dòng chảy”. Đường học vấn không nhiều, cưới trưởng nữ mới tốt, có tài buôn bán giàu có không bằng, danh vọng lẫy lừng, con cái được nhờ cha mẹ.
Tuổi Ngọ, tuổi Mùi: “Cỏ non mọc mùa xuân, rêu xanh được mùa nước”. Vợ chồng gặp nhau trong cảnh hàn vi thì sau mới phát tài phát lộc. Trên tuổi 40 sẽ có tật ách, đường con cái thành đạt.
Tuổi Thân: “Cây khô gặp mùa xuân”. Trước hung sau kiết. Nếu biết giữ tiền không xài hoang phí sẽ giàu lớn. Sinh con học hành thông minh, dễ đậu cao.
Tuổi Dậu: “Con cháu vinh hiển”. Lúc đầu hạnh phúc có trắc trở, sau tái hợp sinh con trai gái đầy đủ, khá giả, giàu sang, phước lộc lâu dài.
Tuổi Tuất, tuổi Hợi: “Chim oanh chim yến khó chung một lồng”. Nếu cả hai là con một hay con mồ côi mới tốt, còn bằng không gia đạo luôn bất hòa. Chồng phải có địa vị cao hơn vợ, gia đình mới hòa thuận, con cái có sinh nhưng không dưỡng.
Chổng Can Đinh lấy vợ:
Tuổi Tý: “Cọp lọt giếng sâu, rồng mắc lưới”. Vợ chồng phát đạt gặp nhau tuy dễ nhưng không lâu bền, nếu còn chung sống chồng mất trước vợ, con cái gặp tai ách liên miên.
Tuổi Sửu, tuổi Dần: “Bình rơi gương vỡ, trâm gãy hoa tàn”. Gặp nhau sẽ suy bại nhiều lần, con cái hữu sinh vô dưỡng, cuối cùng đi đến phân ly cách biệt.
Tuổi Mão: “Gặp nhau ngày hội, thấy hoa nở đầy cây”. Tình duyên vui đẹp, hạnh phúc mãn đường, con cái đầy đủ học hành thành đạt. Chồng về tuổi trung niên có hạn xấu hay con yểu vong, có đứa bỏ nhà sau trở về sum họp với cha mẹ.
Tuổi Thìn, tuổi Tỵ: “Chim đại